Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Research

Q Score

Q Score – Điểm số Q (được biết đến nhiều hơn là Q-Rating) là thước đo sự quen thuộc và hấp dẫn của một thương hiệu, người nổi tiếng, công ty hoặc sản phẩm giải trí được sử dụng ở Hoa Kỳ. Điểm Q càng cao, thì món đồ hay người đó được đánh giá cao là một trong những nhóm quen thuộc với chúng. Điểm Chất lượng và các biến thể khác chủ yếu được sử dụng bởi các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, truyền thông và cộng đồng. Q Score là một thước đo xác định yếu tố “quotient” (“Q”) thông qua mail và các nhà phân tích trực tuyến tạo thành các mẫu đại diện cho dân cư. Điểm số xác định sự quen thuộc của vận động viên, thương hiệu, người nổi tiếng, giải trí (ví dụ: chương trình truyền hình) hoặc tài sản được cấp phép và đo lường sự hấp dẫn của mỗi người trong số những người quen thuộc với đối tượng được đo lường. Các từ đồng nghĩa phổ biến khác bao gồm xếp hạng Q, yếu tố Q và đơn giản là Q. Q Score được phát triển vào năm 1963 bởi Jack Landis và thuộc sở hữu của Marketing Evaluations, Inc, công ty ông

Sweeps period

Các đo lường truyền hình Mỹ của Nielsen được dựa trên ba cách tiếp cận phương pháp khác nhau. Trong 25 thị trường TV có doanh thu cao nhất, Người đo địa phương (LPM) được đo. Các cá nhân đăng ký riêng lẻ, đo lường được thực hiện trong 365 ngày qua 24 giờ. Thiết bị đo SET được sử dụng trong 31 thị trường nhỏ hơn. Trong bốn lần quét vào tháng 2, tháng 5, tháng 7 và tháng 11, dữ liệu của nhóm mục tiêu được thu thập bằng sổ nhật ký và được xác nhận với dữ liệu của các thiết bị (TV on/off) tại các hộ gia đình tham gia. Trong 154 kênh truyền hình có doanh thu thấp nhất việc sử dụng TV chỉ được ghi lại bằng một cuộc khảo sát nhật ký. Mỗi năm, Nielsen xử lý khoảng hai triệu nhật ký giấy từ các hộ gia đình trên toàn quốc, trong những tháng tháng Mười Một, tháng Hai, Tháng Năm và Tháng Bảy – còn được gọi là giai đoạn đánh giá “quét”. Thuật ngữ “quét” bắt đầu từ năm 1954, khi Nielsen thu thập nhật ký từ các hộ gia đình ở Đông Hoa Kỳ trước; từ đó họ sẽ “quét” phía tây. Nhật ký bảy ngày (hoặc nhật

Human–computer interaction viết tắt HCI

Human–computer interaction viết tắt HCI – Sự tương tác giữa con người và máy tính: nghiên cứu thiết kế và sử dụng công nghệ máy tính, tập trung vào các giao diện giữa người dùng và máy tính. Các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực HCI đều quan sát cách con người tương tác với máy tính và thiết kế công nghệ để con người tương tác với máy tính theo những cách mới lạ. Là một lĩnh vực nghiên cứu, tương tác giữa con người và máy tính nằm ở điểm giao nhau của khoa học máy tính, khoa học hành vi, thiết kế, nghiên cứu phương tiện truyền thông và một số lĩnh vực nghiên cứu khác. Thuật ngữ này được phổ biến bởi Stuart K. Card, Allen Newell và Thomas P. Moran trong cuốn sách của họ, The Psychology of Human-Computer Interaction, mặc dù các tác giả lần đầu tiên sử dụng cụm từ năm 1980 và lần sử dụng đầu tiên được biết đến vào năm 1975. [Thuật ngữ này hàm ý rằng, không giống như các công cụ khác chỉ sử dụng một cách hạn chế (như một cái búa, hữu ích cho việc móng tay nhưng không nhiều), máy tính có nhiều

Primary data

Primary data – Thông tin sơ cấp: nghiên cứu chính thức liên quan đến việc thu thập số liệu chính ban đầu bởi các nhà nghiên cứu. Nó thường được tiến hành sau khi các nhà nghiên cứu đã đạt được một số cái nhìn sâu sắc vào một vấn đề bằng cách xem xét nghiên cứu thứ cấp hoặc bằng cách phân tích dữ liệu sơ cấp được thu thập trước đó.

Market Research

Market Research – Nghiên cứu thị trường là phần đầu tiên cũng là phần quan trọng nhất trong việc phát triển chiến lược Marketing. Mục đích của nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin từ khách hàng để hiểu được suy nghĩ của họ từ đó ra các quyết định marketing đúng với những gì khách hàng muốn.

Marketing Intelligence

Mọi quyết định tiếp thị và chương trình tiếp thị hiệu quả đều bắt nguồn từ việc thấu hiểu khách hàng, đối thủ cạnh tranh, thị trường … Thuật ngữ “ Marketing Intelligence (Tình báo Tiếp thị)” là một tập những thủ tục và nguồn thông tin mà những nhà quản trị sử dụng để nhận được những thông tin hàng ngày về những diễn biến cần biết trong môi trường Marketing. Những nhà quản trị nghiên cứu môi trường theo bốn cách : Xem xét không có chủ đích Xem xét có chủ đích Tìm kiếm không chính thức Tìm kiếm chính thức

Marketing information system

Marketing information system – Hệ thống thông tin tiếp thị (viết tắt MkIS): là một hệ thống thông tin quản lý (MIS) được thiết kế để hỗ trợ việc ra quyết định tiếp thị. Jobber (2007 ) định nghĩa nó như là một “hệ thống trong đó các dữ liệu tiếp thị được chính thức thu thập, lưu trữ, phân tích và chuyển đến cho các nhà quản lý phù hợp với nhu cầu thông tin của họ một cách thường xuyên.”

Questionnaire

Questionnaire – Phiếu điều tra:  là một công cụ thường được dùng để ghi chép các ý kiến của khách hàng trong phương pháp phỏng vấn. Phiếu điều tra là một bảng các câu hỏi mà người được phỏng vấn cần trả lời. Việc biên soạn một bảng câu hỏi phù hợp là một vấn đề quan trọng trong phương pháp này. Các câu hỏi phải được đặt rõ ràng, tránh hiểu nhầm, tránh những câu hỏi tế nhị khó trả lời. Có hai loại câu hỏi là  câu hỏi đóng  và  câu hỏi mở . \

Marketing decision support system viết tắt MKDSS

Marketing decision support system – Một hệ thống hỗ trợ quyết định marketing (đôi khi viết tắt MKDSS) là một hệ thống hỗ trợ quyết định cho hoạt động tiếp thị. Hệ thống này được sử dụng để giúp các doanh nghiệp xét các kịch bản khác nhau bằng cách thao tác dữ liệu đã được thu thập từ các sự kiện đã qua.